Tác giả: Nguyễn Công Trứ
“Thị tại môn tiền: náo
Nguyệt lai môn hạ: nhàn. (1)
So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẩu trời cho có tiếc cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.
Thoát sinh ra thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì ?
Khi hỷ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục.
Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ? (2)
Cầm kỳ thi tửu với giang sơn,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi. (3)
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát ?
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Để ông Tô riêng một thú thanh cao (4)
Chữ nhàn là chữ làm sao ?”
NB: Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc?
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?
Biết đủ, thì là đủ. Đợi đủ, khi nào mới đủ ?
Biết nhàn, thì là nhàn. Đợi nhàn, khi nào mới nhàn ?
Thời gian vô tình lướt qua đời người, đối với nhiều chuyện đã thông suốt nhiều chuyện đã xem nhẹ đi rồi.
Đến với tay trắng, ra đi cũng hoàn trắng tay, chuyện đời vốn là thế.
Con đường mình đi, đến cuối con đường vẫn có con đường riêng của nó
Nhân sinh tựa chuyến lữ hành, nào cần đến đích đến, chỉ là hoa cỏ, tiếng chim ngân nga bên đường.
Trong tâm tràn ngập niềm biết ơn, ôn hòa, độ lương khoan dung rồi, nhỏ bé lại dần, hòa khí tự nhiên sinh
Từ tâm mà cảm nhận Xuân, Hạ, Thu , Đông theo cách của riêng mình
Đời sống vốn ngắn ngủi, khổ đau hay uất hận, tốt hay xấu đều không cần phải tiếc nuối, vượt qua được đã là quá tốt, không vượt qua được cũng là kinh nghiệm sống cho mình, chỉ cần sống hết lòng với mình, nên không cần tiếc nuối cũng không hối hận gì.
Đừng để quá khứ níu kéo trở lại, cũng đừng vì tương lai mà quá lo lắng, hôm qua đã qua rồi còn ngày mai thì chưa tới, hãy sống hết lòng với hiện tại vì có rất nhiều chuyện không biết được xảy đến ở tương lai, chỉ cần làm thật tốt những gì đến với mình hôm nay.
TH.
LeBinh
21-09-2020.
NB:
Nguyễn Công Trứ tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn. Ông sinh ngày mồng 1, tháng 11, năm Mậu Tuất (tức ngày 19 tháng 12 năm 1778) tại huyện lỵ Quỳnh Côi, phủ Thái Bình. Thân phụ là Ðức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tuấn quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang, Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tri phủ Tiên Hưng – Thái Bình, thân mẫu là Nguyễn Thị Phan, con gái quan Quản nội thị tược Cảnh Nhạc Bá dưới triều vua Lê – chúa Trịnh. Ông mất ngày 14/11 năm Mậu Ngọ (tức ngày 7/12/1858), thọ 80 tuổi tại quê nhà làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân.
Theo các nhà nghiên cứu, từ nhỏ ông nổi tiếng học giỏi, hay thơ văn, tính cách phóng khoáng. Lớn lên trong những năm cuối của nhà Tây Sơn, đến đầu nhà Nguyễn, sau bao lần lận đận "lều chõng", mãi đến năm 41 tuổi (1819), ông mới thi đậu giải nguyên (1820–1847) làm quan dưới triều Nguyễn. Lần đầu tiên xuất chinh, Nguyễn Công Trứ giữ chức hành tẩu ở Quốc sứ quán (1820). Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Ðường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc Tử Giám (1824), Phủ Thừa phủ Thừa Thiên (1825), tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ Hình (1826). Năm 1828, Nguyễn Công Trứ thăng Hữu Tham tri Bộ Hình, sang chức Dinh điền sứ. Năm 1832 ông được bổ chức Bố chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ Binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An.
Năm 1840 giữ chức Tả Ðô Ngự sử viện đô sát, kiêm Tham tri Bộ binh, tán lý cơ vụ đồn trấn Tây. Năm 1845 làm chủ sự Bộ hình, năm 1846 làm quyền án sát Quảng Ngãi, được 2 tháng, ông lại đổi ra làm Phủ Thừa phủ Thừa Thiên, đến năm 1847 thăng làm Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, Nguyễn Công Trứ xin về hưu.
Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền 3-4 cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…
Năm Tự Đức thứ hai 1848, ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Trong sách Đại Nam liệt truyện, Tập 3, Truyện các quan có nhận xét về ông:
“Công Trứ là người trác lạc, có tài khí, có tài làm văn, càng giỏi về quốc âm, làm ra thi ca rất nhiều, khí hào mại, phổ đầy ở trong âm luật; đến nay hãy còn truyền tụng. Trứ làm quan thường bị bãi cách rồi được cất nhắc lên ngay; tỏ sức ở chiến trường nhiều lần lập được công chiến trận. Buổi đầu Trứ lĩnh chức doanh điền, sửa sang mới có trong một năm mà các việc đều có đầu mối, mở mang ruộng đất, tụ họp lưu dân, thành ra mối lợi vĩnh viễn. Khi tuổi già về nghỉ, tức thì bỏ qua việc đời, chơi thú sơn thuỷ, trải sơn 10 năm có cái hứng thú phớt thoảng ra ngoài sự vật. Đến người ta, phần nhiều tưởng đến phong độ khí thái của ông. Sau khi Trứ mất, các huyện ấp do ông lập ra đều đựng đền để thờ.”
Đại Nam liệt truyện.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét